Tổng quan Chiến_tranh_Hoa_Hồng

Tóm tắt

Henry của Bolingbroke, tức Henry IV, lập nên nhà Lancaster ở Anh vào năm 1399 khi ông lật đổ người em họ là Richard II. Henry IV và con trai ông là Henry V lần lượt làm vua nước Anh, nhưng khi Henry V qua đời, người thừa kế của ông là Henry VI chỉ là một đứa bé sơ sinh. Henry VI lớn lên trong tình trạng thần kinh không ổn định và hoàn toàn bị lấn át bởi các quyền thần.

Do Henry VI không có khả năng cai trị vương quốc Anh. Richard Plantagenet, Công tước thứ ba của York, lên tiếng đòi ngai vàng. Richard là con cháu của dòng họ Edward, dòng họ cai trị nước Anh trước thời Lancaster và tỏ ra là một lãnh đạo có tài, nắm giữ nhiều trọng trách trong nước. Mặc dù các cuộc đụng độ vũ trang trước đó đã diễn ra giữa những người ủng hộ hai dòng họ YorkLancaster, đến năm 1455 mới nổ ra trận đánh lớn đầu tiên, trận St. Albans lần thứ nhất. Nhiều nhân vật chủ chốt của gia đình Lancaster thiệt mạng, nhưng những người thừa kế tiếp tục cuộc chiến. Hòa bình được tái lập tạm thời, nhưng dòng họ Lancaster, dưới sự lãnh đạo của Margeret Anjou, hoàng hậu của Henry VI, tiếp tục thách thức ảnh hưởng của dòng họ York.

Chiến tranh tiếp diễn vào năm 1459. Phe York thua cuộc và bị buộc phải lưu vong, nhưng một trong những người ủng hộ chủ chốt của họ, Bá tước xứ Warwick, Richard Neville, xâm lược nước Anh từ Calais và bắt sống Henry VI trong trận Northampton. Richard Plantagenet xứ York về nước và làm Bảo hộ của nước Anh, nhưng không được thừa kế ngai vàng. Margeret và các thành viên còn lại của nhà Lancaster thu thập tàn quân và củng cố lực lượng ở miền bắc Anh. Khi quân York tiến về miền bắc, Richard xứ York bị giết trong một trận đánh cuối năm 1460. Nhà Lancaster lại tiến về phía nam và giải thoát cho Henry VI trong trận St. Albans lần thứ hai, nhưng không chiếm được London và lại rút về miền bắc.

Sau đó, con trai út của Richard xứ York, Edward IV, lên ngôi, tập hợp lực lượng và giành được một chiến thắng quan trọng trước phe Lancaster trong trận Towton vào đầu năm 1461. Sau khi dẹp tan những cuộc nổi loạn của phe Lancaster, quân York bắt lại được Henry VI vào năm 1464, nhưng Edward bất đồng quan điểm với cận thần quan trọng nhất của ông, Bá tước của Warwick, "Người buôn vua". Ông cũng gây bực tức với nhiều triều thần và cả các thành viên trong gia đình mình khi dành nhiều ưu tiên cho gia đình bên vợ, hoàng hậu Elizabeth Woodville, người ông kết hôn trong bí mật. Warwick định thay Edward bằng cậu em trai George, Công tước của Clarence, rồi sau đó sẽ khôi phục ngai vàng cho Henry VI. Điều này giúp cho Henry VI giành lại quyền kiểm soát trong hai năm 1470 và 1471, trước khi Edward IV giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1471. Warwick và người thừa kế của dòng họ Lancaster, Edward, Hoàng thân của Wales, chết trong chiến trận và Henry bị xử tử ngay sau đó.

Sau đó là một giai đoạn hòa bình tương đối, nhưng Edward qua đời đột ngột vào năm 1483. Em trai của ông, Richard của Gloucester, cố gắng ngăn cản gia đình Woodville của bà vợ góa của Edward tham gia triều chính khi người kế vị của Edward, Edward V, còn quá nhỏ. Sau đó, Richard cướp luôn ngôi vua với lời giải thích rằng cuộc hôn nhân của Edward IV không được pháp luật thừa nhận. Henry Tudor, một người họ hàng xa của nhà Lancaster, khởi binh chống lại Richard, đánh bại ông ở Bosworth năm 1485. Những người ủng hộ dòng họ York thừa dịp bất ổn nội bộ của nhà Lancaster lại nổi dậy năm 1487 và Henry Tudor đưa quân dẹp loạn trong những trận đánh cuối cùng. Hầu hết thành viên có quyền thừa kế của gia đình York đều bị bắt, nhưng các nhóm nổi loạn lẻ tẻ vẫn hoạt động cho tới khi một người tự xưng là Perkin Warbeck, người thừa kế xa của nhà York, bị xử tử vào năm 1499.

Tên gọi và biểu tượng

Biểu tượng hoa hồng trắng của nhà YorkBiểu tượng hoa hồng đỏ của nhà Lancaster

Tên gọi Chiến tranh Hoa Hồng chỉ được sử dụng sau này dựa trên gia huy của hai dòng họ hoàng gia, hoa hồng trắng đại diện cho nhà York và hoa hồng đỏ đại diện cho nhà Lancaster. Tên gọi cuộc chiến trở nên phổ biến từ thế kỷ 19 sau khi Sir Walter Scott cho xuất bản cuốn sách Anne of Geierstein. Scott đặt tên cho cuộc chiến dựa theo một hồi trong vở kịch dã sử Henry VI của William Shakespeare.

Mặc dù các biểu tượng hoa hồng cũng được sử dụng trong cuộc chiến, hầu hết những tướng lĩnh trực tiếp tham chiến có gia huy riêng dựa trên lãnh địa phong kiến và dòng tộc của họ. Chẳng hạn, lực lượng của Henry VIBosworth chiến đấu dưới lá cờ có hình rồng đỏ, còn quân đội của York sử dụng biểu tượng cá nhân của Richard III, một con lợn rừng màu trắng. Tuy nhiên, biểu tượng hoa hồng có tầm quan trọng lớn nhất và vào cuối cuộc chiến, vua Henry VII đã hợp nhất hai biểu tượng thành một đóa hồng vừa có màu đỏ vừa có màu trắng, hoa hồng Tudor.

Tên và biểu tượng của hai dòng họ cũng rất ít liên quan đến những thành phố YorkLancaster, hay các địa hạt YorkshireLancashireAnh ngày nay, dù các trận cricketbóng bầu dục giữa hai đội đại diện cho hai thành phố vẫn được gọi là Cuộc chiến Hoa Hồng. Trên thực tế, các vùng lãnh địa của Công tước xứ Lancaster nằm chủ yếu ở Gloucestershire, bắc WalesCheshire, trong khi đất phong và lãnh địa của Công tước xứ York (và của bá tước xứ March mà Richard xứ York được thừa kế) trải rộng khắp nước Anh, tập trung nhất tại vùng March xứ Wales.

Quân đội và các bên tham chiến

Richard II (tranh vẽ khoảng 1390)

Các lực lượng tham chiến chủ yếu trong Chiến tranh Hoa Hồng là quân đội của những lãnh chúa phong kiến và các dòng họ quý tộc Anh. Những người ủng hộ cho hai bên YorkLancaster chủ yếu dựa vào quan hệ dòng tộc, hôn nhân trong giới quý tộc hoặc các quyền lợi về đất đai. Hệ thống phân phong không chính thức cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến. Theo đó, các quý tộc nhiều quyền lực cam kết sự bảo hộ với những ai chấp nhận đi theo lá cờ của họ, cũng như trả tiền cho binh lính từ đất phong của mình. Vua nước Anh do đó, không có thực quyền với những quý tộc lãnh chúa và ngai vàng có thể bị đe dọa một cách khá dễ dàng. Do những mâu thuẫn gia đình, dòng họ, lợi ích về đất phong, tham vọng quyền lực, các quý tộc cũng có thể dễ dàng trở mặt và một số trận đánh được định đoạt chỉ do sự phản bội của các lực lượng tham chiến ở cả hai bên.

Quân đội thời bấy giờ chủ yếu là những người gia thần của các quý tộc, với hai quân chủng chủ yếu là lính bắn cung và bộ binh dùng giáo. Cũng có các binh chủng sử dụng súng và pháo, nhưng rất hạn chế. Kỵ binh chỉ được sử dụng ở mức dùng làm quân do thám hoặc các toán trinh sát. Gần như toàn bộ lực lượng tham chiến là bộ binh.